Các em học sinh có thể tham khảo bài viết Giải bài tập trang 142, 143 SGK Toán 4 để xem chi tiết về cách giải, làm bài tập hiệu quả hơn. Bài tập về diện tích hình thoi trong vở bài tập Hai chú gấu tham ăn. Đeo nhạc cho mèo. Trước Tiếp theo. Truyện cười. Những mẫu chuyện của danh nhân thế giới Tìm kiếm cho: Truyện cho con > Truyện tiếng anh. Truyện tiếng anh. Tổng hợp truyện ngắn, truyện cổ tích tiếng anh rất dễ hiểu và thú vị, giúp bạn học tiếng Những kiến thức về làm đẹp cùng kinh nghiệm tham gia các cuộc thi nhan sắc đã giúp Chủ tịch Thẩm mỹ viện Arina - Nguyễn Thị Quỳnh Trang có thể giúp các thí sinh cuộc thi Hoa hậu Du lịch 2022 trở nên rạng rỡ, tự tin hơn. Nguyễn Thị Quỳnh Trang có thể giúp các thí sinh Sự tích Trầu Cau) Một số đặc điểm cốt truyện nhóm truyện - Tài liệu text tìm hiểu số đặc điểm thi pháp nhóm truyện phong tục ngời Việt với mục đích góp phần xác định thể loại, tiểu loại cho nhóm truyện có liên quan đến phong tục Bộ phận truyện phong tục Saiki TV. 121 Lượt xem. 7:04. [Thám tử lừng danh Conan] - Trận chiến phiên tòa hội thẩm Kobayashi (P3) | Anime hay. Saiki TV. 107 Lượt xem. 10:26. [Thám tử lừng danh Conan] - Lời nguyền của Kappa (Phần 4) | Anime hay. Saiki TV. HM1h. Cùng đọc truyện Tham thì Thâm Ngày xưa, trong một làng ven sông Đà có một người rất giàu có, nhưng tính tình tham lam, gian ác. Một hôm, vào tối tháng chạp, có một cụ già rách rưới, không biết từ đâu đến, đi vào làng. Bà cụ tìm đến nhà tên giàu xin trú thân. Thấy cụ yếu đuối và rách rưới, hắn đuổi không cho ngủ nhờ. Bà cụ vẫn cứ xin mãi, hắn cũng một mực đuổi ra. Bà cụ đành phải đi. Vừa đi khỏi cổng, bà gặp một người nông dân từ xa đi tới. Thấy người già yếu, đi trong đêm tối rét mướt, anh hỏi Cụ ở đâu mà đêm hôm vẫn còn lặn lội ở ngoài đường thế này? Bà cụ đáp Tôi từ xa tới, đến đây thì nhỡ độ đường, vừa vào nhà kia cụ chỉ về phía nhà giàu xin ngủ nhờ một đêm nhưng nó không cho. Anh liền nói Mời cụ vào nhà tôi nghỉ tạm vậy. Bà cụ theo anh nông dân về nhà. Nhà anh là một cái túp lều xiêu vẹo, rách nát. Vừa vào đến nhà anh đã kể đầu đuôi câu chuyện cho vợ rõ. Nhà chỉ còn một bát gạo, hai vợ chồng đem nấu cho bà cụ ăn. Cơm nước xong, hai vợ chồng dọn giường chiếu cho bà cụ ngủ. Mùa đông, gió rét, bà cụ run lên cầm cập. Nhà chỉ có một chiếc chăn đơn cũ kĩ, hai vợ chồng cũng nhường cho bà cụ đắp. Bà cụ lên giường nằm, hai vợ chồng ngồi bên bếp lửa sưởi, chờ cho bà cụ ngủ say mới đi nằm. Nhưng họ vừa đặt mình xuống chưa chợp mắt thì bà cụ rên hừ hừ, kêu đau bụng. Hai vợ chồng dậy lấy cho bà cụ một chiếc chậu sành để đi đại tiện. Một đêm, bà cụ đi đến bảy, tám lần. Hai vợ chồng phải thay phiên nhau đỡ bà cụ. Gần sáng, đôi vợ chồng mệt quá, thiếp đi lúc nào không biết. Khi hai người tỉnh dậy thì tròi đã sáng, nhìn sang giường bên thì không thấy bà cụ đâu cả. Người vợ bưng chậu đi đổ, thấy nặng khác thường Chị nhìn xuống thì thấy trong chậu đầy vàng óng ánh. Từ đó, hai vợ chồng trở nên giàu có. Tuy vậy, họ không bao giờ quên cảnh nghèo khi trước nên vẫn hết sức giúp đỡ những người trong cảnh khốn cùng. Tiếng lành đồn xa, khắp dân trong vùng ai ai cũng biết. Tên phú ông lân la đến chơi nhà hai vợ chồng, dò hỏi. Từ đấy, ngày nào hắn cũng mong được gặp lại bà cụ. Bỗng một hôm, trời gần tối, không biết từ đâu, bà cụ lại đến nhà hắn xin ngủ nhờ. Hắn khấp khởi mừng thầm, vui sướng như mở cờ trong bụng. Nhà hắn thì tòa ngang dãy dọc, nhưng hắn cho bà cụ nằm dưới bếp. Thóc của hắn có hằng bao nhiêu vựa, nhưng hắn chỉ cho bà cụ một bát cơm nguội với vài quả cà thiu. Xưa nay, hắn chưa cho ai một tí gì, nên hắn tưởng thế đã là hậu đối với người nghèo khó. Đêm ấy, hắn ngồi đợi bà cụ đi ra vàng. Hắn thức khuya mà vẫn thấy cụ ngủ im thin thít, không kêu đau bụng gì cả. Mệt quá, hắn bỏ đi nằm. Vừa đặt mình xuống thì bà cụ kêu đau bụng, rồi một lát sau đòi đi ra ngoài. Hắn quên mất ý định từ trước, trong lúc nửa tỉnh nửa mê, hắn mắng bà cụ Của nợ, chỉ thấy quấy rầy người ta. Muốn đi thì ra ngoài kia mà đi, ai hầu được! Nhưng sực nhớ ra bà cụ có cái bụng chứa đầy vàng hắn vội nói à à, thôi được, cứ nằm đấy, tôi mang chậu vào cho. Thế rồi hắn vội đi lấy cái thùng to tướng và giục bà cụ ngồi vào đó. Bà cụ đau suốt đêm và đi như tháo cống. Tên phú ông thấy bà cụ đi nhiều, rất lấy làm mừng. Suốt đêm, hắn không sao chợp mắt được, chỉ mong cho chóng sáng. Nhưng đến khi tờ mờ sáng thì hắn lại ngủ thiếp đi. Sáng rõ, tên phú ông tỉnh dậy, không thấy bà cụ đâu cả. Hắn vội đến thùng vàng thì mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Hắn tím mặt, vội đi tìm bà cụ, hung hăng định cho một trận, nhưng không thấy bóng dáng bà cụ đâu cả. Truyện cổ tích Tham Thì Thâm thuộc chuyên mục “Những câu truyện cổ tích hay cho bé“ Xem thêm Sự tích hồ gươmCây tre trăm đốt Tham thì thâm là truyện cổ tích kể về một nhà buôn không biết thỏa mãn, để cho lòng tham làm mờ cả lương tâm nên đã bị mù hai mắt và mất hết của cải. 1. Người ăn xin kì lạ Ngày xưa có một ông vua cùng quan tể tướng [1] vi hành [2] ra ngoài thành chơi. Qua một chiếc cầu, hai người gặp một ông lão bộ dạng thảm thương, lại mù cả hai mắt, chìa tay xin tiền. Thương tình, vua đặt vào tay ông lão một đồng tiền vàng và toan rảo bước đi ngay nhưng lão ăn mày đã nắm chặt tay nhà vua vua và bảo – Xin ngài tát cho tôi một cái vào má rồi hãy đi. Nhà vua không thể chiều theo ý muốn kì quái của ông lão, toan bỏ đi thì lão đã đưa cả hai tay nắm riết lấy áo ngài, cầu khẩn – Xin ngài hãy thương tôi mà tát cho tôi một cái. Nếu ngài biết tội lỗi của tôi, dám chắc rằng ngài sẽ cho cái hình phạt này đối với tôi hãy còn là rất nhẹ. Chẳng muốn mất thì giờ, nhà vua đành phải tát vào má ông lão. Bấy giờ, ông lão mới chịu bỏ tay ra, cảm ơn rối rít. Đi mấy bước, vua bảo tể tướng – Ta đoán ông già mù kia có nỗi khổ tâm gì đây. Vậy ngươi hãy quay lại, dặn lão đến trưa mai vào cung hầu chuyện ta. Trưa hôm sau, ông lão mù được tể tướng dẫn vào chầu vua. Vua phán – Ngươi hãy nói cho ta biết tại sao ngươi lại xin ăn kì khôi như vậy. 2. Nhà buôn giàu có và người đạo sĩ Ông lão không dám trái lệnh vua, bèn kể – Tâu bệ hạ, thảo dân vốn là một nhà buôn giàu có, chủ nhân của một đoàn lạc đà chở hàng hóa có tới chín mươi con. Một hôm, sau khi bán hàng trở về, thảo dân bỗng gặp một đạo sĩ [3]. Nhân tiện tới bữa, thảo dân mời đạo sĩ cùng ăn. Chúng thảo dân nói hết chuyện gần xa lại nói tới chuyện làm giàu. Đạo sĩ bảo ông ta biết một nơi có vô vàn của cải, dùng chín mươi con lạc đà của thảo dân vị tất đã khuân được một phần nhỏ. Cái tin này làm cho thảo nhân vô cùng ngạc nhiên, vui sướng. Thảo dân bảo đạo sĩ rằng “Ngài hãy mách cho tôi biết nơi đó rồi tôi sẽ làm quà cho ngài một con lạc đà của tôi”. Một con lạc đà để trả cái ơn to như thế thì quả là quá ít. Nhưng khốn nỗi, lúc ấy lòng tham tự nhiên nổi lên khiến thảo dân không còn biết thế nào là phải trái nữa. Đạo sĩ muốn được nửa số lạc đà và của cải. Ông ta bảo chỉ một con lạc đà chất đầy báu vật của ông cũng đủ mua cả triệu con lạc đà này. Tuy biết rằng đạo sĩ làm vậy là phải nhưng cái ý nghĩ có một người thứ hai cũng giàu bằng mình khiến thảo dân khổ tâm vô cùng. Nhưng cuối cùng thì thảo dân cũng đành phải ưng theo đạo sĩ. Chúng thần đi đến một nơi vô cùng hiểm trở. Tới một ngọn núi cao nhất, đạo sĩ dừng lại, lấy đá châm lửa đốt rồi làm lầm rầm khấn vái. Tức thì một đám khói đen cuồn cuộn bốc lên. Đạo sĩ gạt đám khói, tự nhiên bức tường núi đá mở toang ra. Phía trong hiện lên một tòa lâu đài vô cùng tráng lệ, vàng bạc, châu báu xếp cao chất ngất từ dưới đất lên đến tận trần. Chúng thần nhặt đầy ắp các bao tải, chất lặc lè lên lưng chính mươi con lạc đà. Trước khi đi đóng cửa lâu đâì, thảo dân để ý thấy đạo sĩ nhặt một chiếc hộp con rồi bỏ ngay cái hộp vào trong túi. Sau đó, chúng thần chia nhau lạc đà rồi mỗi người đi một ngả. 3. Tham thì thâm Đi được mấy bước, tự nhiên lòng tham nổi lên xâm chiếm lòng thảo dân. Thảo dân nghĩ đạo sĩ cần gì bốn mươi nhăm con lạc đà với của cải chất trên lưng chúng. Ông ta là chủ khi báu kia mà. Nghĩ vậy, thảo dân chạy theo đạo sĩ, lớn tiếng gọi. Đạo sĩ dừng lại. Thảo dân đến gần ông ta, bảo “Ngài phải chăm 45 con lạc đà sẽ vô cùng cực nhọc. Chi bằng ngài hãy nhường lại 15 con cho tôi.” Đạo sĩ đáp “Bác nói có lí đấy! Vậy bác cứ lấy thêm 15 con nữa đi”. Thảo dân không ngờ đạo sĩ dễ tính như vậy nên lại ngọt ngào bảo “Đạo sĩ hãy bớt cho tôi 10 con lạc đà nữa đi. Đấy là tôi thành thực khuyên ngài, đừng tưởng tôi tham lam nhá!” Nghe nói, đạo sĩ lại bằng lòng. Không biết xấu hổ, thảo dân lại cất lời cầu xin thêm 10 con lạc đà nữa. Đạo sĩ lại tươi cười đồng ý. Thảo dân sung sướng quá, bá lấy cổ ông ta hôn lấy hôn để “Đạo sĩ sẽ làm cho tôi vui mừng khôn tả nếu ngài cho nốt tôi 10 con lạc đà còn lại kia”. Không lưỡng lự, đạo sĩ lại bằng lòng. Rồi ông ta dịu dàng bảo “Tôi vui lòng biếu bác tất cả số lạc đà của tôi. Nhưng bác hãy nhớ ông Trời có thể ban cho ta sự giàu có, cũng có thể làm ta khánh kiệt. Vậy bác nên tiêu đồng tiền cho phải lẽ và phải luôn cứu giúp những người nghèo khó. Lúc bây giờ thảo dân đâu còn để tai đến những lời khuyên quý hóa đó. Thảo dân còn đương tính cách làm thế nào để chiếm nốt được cái hộp mà đạo sĩ lấy được ban nãy. Thế là, trước khi đạo sĩ lên đường, thảo dân lại dịu dàng nói “Đạo sĩ ơi! Ngài hãy cho tôi nốt cái hộp nhỏ đi!!”. Lần này, đạo sĩ nhất định từ chối. Thảo dân ngạc nhiên mấy lần trước ông ta đều cho dễ dàng như thế cơ mà! Vậy thì chắc chắn là cái hộp chứa một bí mật kì lạ. Thảo dân định bụng nếu xin lần nữa mà không được thì thảo dân sẽ dùng võ lực lấy cho kì được cái hộp mới thôi. May mắn thay, đạo sĩ lại bằng lòng đưa nốt cho thảo dân cái hộp. Thảo dân mở nắp hộp ra, thấy trong hộp chỉ chứa một thứ thuốc bột. Đạo sĩ bảo “Thứ thuốc bột này nếu bôi vào mắt trái sẽ làm cho ta trông thấy tất cả vàng bạc, châu báu quý giá giấu trong lòng đất, nhưng nếu bôi vào mắt phải thì lập tức sẽ mù ngay”. Thảo dân bèn nhờ đạo sĩ bôi thử thức thuốc bột kì lạ đó. Đạo sĩ lấy tay miết thuốc lên mi mắt thảo dân. Thuốc vừa ngấm, thảo dân đã nhìn tới tận trung tâm trái đất Chao ôi, kim cương, vàng bạc châu báu sáng lóa, nhiều vô kể. Muốn nhìn thấy nhiều vàng bạc hơn, thảo dân lại đòi đạo sĩ bôi thuốc vào mắt bên phải cho thảo dân. Đạo sĩ nhất định không làm theo ý thảo dân. Càng thấy đạo sĩ từ chối, thảo dân càng nài nỉ. Thảo dân thề với đạo sĩ dù thế nào cũng không oán trách ông. Đạo sĩ ngăn thế nào cũng không được, đành miết thuốc bột lên mi mắt phải của thảo dân. Thuốc vừa ngấm, hai mắt thảo dân bỗng dưng không nhìn thấy gì nữa. Tất cả là một màn đêm đen kịt. Thảo dân rối rít cầu xin đạo sĩ cứu vớt thảo dân đã quá dại không nghe lời ông. Đạo sĩ đáp “Bác đã để cho lòng tham lam mờ ám lương tâm. Ta không có thuốc nào chữa cho bác khỏi mù. Thôi, bác hãy cầu xin Thượng đế, may người có thương tình chăng. Còn của cải thì bây giờ ta sẽ đem cho người khác xứng đáng hơn”. Cả ngày hôm đó, thảo dân lang thang đờ đãn, khổ sở quá chừng. Mãi đến tối, thảo dân mới gặp được một đoàn người ngựa. Họ thương tình sắt thảo dân trở về. Than ôi! Con đương ở một địa vị tột bậc giàu sang bỗng dưng mù lòa, lại phải ngửa tay xin ăn. Thảo dân tự đặt ra cho mình một hình phạt bất cứ ai cho thảo dân tiền, thảo dân cũng xin người ấy tát thảo dân một cái. Ông lão mù nói xong, đức vua phán – Tội ngươi tuy to thật nhưng ngươi đã biết hối lỗi, tự đặt ra hình phạt cho mình. Thôi từ nay ngươi đừng làm thế nữa. Ta thương nhà ngươi già nua tuổi tác còn phải ăn xin, vậy ta sẽ ban cho ngươi 50 lạng vàng. Ông lão ăn xin vội quỳ rạp xuống cảm ơn, tung hô vạn tuế, rồi hớn hở theo tên lính hầu ra về cùng với số tiền vua ban. Câu chuyện Tham thì thâm – Theo Nguyễn Văn Nghiêm Nguồn Truyện đọc lớp 4, trang 127, NXB Giáo dục – 2021 – – Chú thích trong truyện Tể tướng chức quan đứng đầu triều đình. Vi hành vua hoặc quan to đổi cách ăn mặc, không lộ mình là ai để đi tìm hiểu tình hình sinh sống của dân chúng. Đạo sĩ người tu hành theo đạo giáo; người tu tiên. Thử thách trong câu chuyện Sau khi nhà vua cho tiền ông lão ăn xin, ông có yêu cầu kì quặc gì? Qua câu chuyện ông lão kể lại, con có nhận xét gì về lòng tham của ông? Con hiểu “Tham thì thâm” là thế nào? Chọn ý trả lời đúng – Tham thì đen đủi, xấu xí. – Tham lam thì gặp điều xấu. – Tham lam là tính xấu. Tham thì thâm nghĩa là gì? “Tham thì thâm” là câu thành ngữ Việt Nam, hàm ý chê trách những kẻ tham lam, hám lợi thường có kết cục không may mắn. Chữ thâm vốn nghĩa là sâu, đây có ý nói là sâu cay đau đớn. Nhà buôn trong câu chuyện kể trên cũng chỉ vì quá tham lam nên mới gặp tai họa, phải đi xin ăn và tự đề ra cho mình hình phạt để nhắc nhở bản thân đó là nhận một cái tát từ những người bố thí cho mình. Ngày xưa, có một người con gái tên là Tơ cha mẹ đều mất sớm, phải đem thân đi ở hầu hạ một bà góa giàu có. Tánh tình của bà chủ nhà ác nghiệt quá đỗi khiến một hôm thị Tơ phải bỏ trốn đi, chạy vào một khu rừng, nghĩ bụng thà chết vào miệng thú dữ còn hơn là ở mãi trong cảnh khốn khổ bị hành hạ hàng ngày. Thị Tơ đi được một quãng khá xa, phần bấy lâu nay ăn uống thiếu thốn đuối sức, phần vất vả băng rừng lội suối, nên ngã ngất nằm trên một tảng đá. Thần núi ở đấy thấu rõ tình cảnh đáng thương của cô gái hiền lành thơ ngây mới theo dõi che chở. Khi thị Tơ bừng mắt tỉnh dậy tưởng chừng mình như vừa qua một giấc chiêm bao. Cảnh vật chung quanh khác hẳn lúc nàng ngất đi. Nàng thấy mình nằm ở trong một cái động, rêu trải mềm dịu như nhung, dưới chân một giòng suối đang chảy qua kẽ đá êm đềm như tiếng nhạc. Trước mắt nàng, vừa tầm tay với, vô số những trái cây ngon chín thắm lủng lẳng ở dây leo buông xuống như rèm che cửa động. Đang đói khát sẵn, nàng đưa tay lên hái ăn ngấu nghiến ngon lành. Sau bữa ăn thanh đạm ấy, trong người nàng cảm thấy khỏe nhẹ khác thường. Thần núi hiện hình một ông lão râu tóc bạc phơ, tay chống gậy trúc bước đến gần nàng. Trông thấy cụ già phúc hậu, thị Tơ vái chào kính cẩn. Ông lão làm ra vẻ ngạc nhiên, hỏi nàng ở đâu đến đây, làm sao lạc lõng một mình giữa rừng núi hoang vắng. Thị Tơ chân thành kể lại đầu đuôi mọi nỗi về kiếp sống đầy đọa của mình. Ông lão lắc đầu tội nghiệp cho nàng rồi khuyên nhủ – Cháu trốn như vậy là phải. Cháu cứ ở lại đây, có lẽ được yên thân hơn, có lão trông chừng cho. – Thưa cụ, cụ là ân nhân của cháu, xin cụ cho cháu được biết cụ ở đâu. – Cả khu rừng núi này là nhà của lão. Lão sống bằng nghề đốn củi, nên nay đây mai đó luôn. Cháu đừng lo ngại, thỉnh thoảng có lão lại thăm. Nếu có việc gì cần đến lão, cháu cứ tới mỏm đá này gọi “Ông tiều ơi” là có lão đến ngay. Sáng hôm sau, ông lão trở lại cho thị Tơ một bọc quần áo mới để thay bộ đồ cũ rách nát. Từ đó, thị Tơ sống một cuộc đời thanh thản, tự do, không phải lo đến ngày mai, không buồn rầu nghĩ đến ngày qua. Dần dần chim chóc, các thú trong rừng đến làm quen với nàng, ngày ngày mang lại cho những trái cây ngon ngọt, quý lạ để dùng làm thức ăn. Sống như thế, nhan sắc thị Tơ ngày một rạng rỡ như đóa hoa rừng đang độ tốt tươi. Vào thuở bấy giờ, ở Thượng giới có một vị thần đam mê khoái lạc, sau khi biến cõi thiên đình thành một chốn trác táng rồi chán những lạc thú trên trời, thần tìm xuống trần gian. Nhờ phép tắc siêu phàm, vị thần biến hóa ra đủ mọi hình dạng để cám dỗ đàn bà con gái nhan sắc. Từ giới thượng lưu cho đến bình dân, thần hiện ra khắp nơi, khi là vị quan trẻ đẹp, tài hoa lỗi lạc, khi là một thanh niên tuấn tú, phong nhã, đa tình, để lôi cuốn bao nhiêu người đẹp vào trong vòng sắc dục. Không một người đàn bà, con gái nào bị để ý đến mà tránh khỏi sức thu hút của thần để khỏi rơi vào vòng đam mê. Thần đã chán chê khoái lạc trong giới thượng lưu xa hoa, một hôm đi tìm lạc thú ở nơi thôn dã, qua khu rừng vắng, không một bóng người, tình cờ gặp cô gái rừng xanh đang nô đùa với bầy chim cùng muông thú. Sau phút sững sờ trước sắc đẹp của thị Tơ, lòng dục bùng cháy lên, thần mon men rẽ lá tiến lại định vồ lấy người đẹp. Một tiếng chim kêu thất thanh, cả cô gái cùng muông thú vội vàng bỏ chạy trước người lạ, thần ra sức đuổi theo. Thị Tơ quen sống giữa thiên nhiên đã trở nên nhanh nhẹn khác thường, chạy đi như gió, thần bèn giở phép phóng theo. Trong lúc thần sắp chụp được thì con nai lớn đến quỳ xuống cho thị Tơ leo lên lưng mà thoát khỏi tay dâm thần. Nai đưa tới động, thị Tơ sợ hãi không dám bước ra ngoài nữa. Nàng trèo lên mỏm đá, gọi “Ông tiều ơi” ba lần thì thấy ông lão hiện ra. Ông lão căn dặn nàng cẩn thận và trao cho nàng một chiếc vòng ngọc, đeo vào tay có thể muốn tàng hình lúc nào cũng được. Nhờ thế mà nàng tránh khỏi sự săn đón của vị thần muốn chiếm đoạt nàng. Thấy công đeo đuổi của mình không có kết quả, thua trí một sơn nữ, thần nổi giận thề quyết bắt nàng cho kỳ được. Nhờ phép siêu phàm, thần giăng một sợi lưới rộng lớn với những sợ chỉ thật nhỏ và thật chắc bao vây cả khu rừng. Cô gái không dè nên bị mắc vào lưới, may nhờ một con bạch tượng dùng ngà đâm thủng, cứu thoát nàng một lần nữa. Nàng gọi đến ông tiều. Ông lão lão hiện ra khuyên nàng lần sau có bị vướng lưới thì kêu đến tên Phật Bà Quan Âm. Vì sợ mắc bẫy nên đã lâu thị Tơ không dám ra khỏi động. Nhưng rồi lòng ham muốn tự do chạy nhảy lại thúc giục nàng đi. Lần này nàng hướng về phía khác để tránh sự theo dõi của vị thần si tình. Song nhờ phép thần thông, vị thần biết được giờ nàng đi và nơi nàng đến, nên giăng lưới trước bắt được. Nhớ lời ông lão dặn, nàng kêu đến tên Phật Bà Quan Âm, thì nhiệm màu thay, tất cả các sợi chỉ lưới đều rút gọn lại thu tròn bằng một hạt đậu lạc. Trong lúc nàng mở miệng gọi đến lần thứ hai thì trái chỉ theo hơi nàng thở hút vào trong bụng. Thấy phép tắc thần thông bị một cô gái thu mất, lòng tự ái của thiên thần bị kẻ phàm trần trêu ngươi quá đỗi, vị thần nổi trận lôi đình nghĩ cách trả thù. Lập tức thần nhắn gọi ngay Thiên Lôi ở dưới quyền mình trước kia đến. Thần Sét rủ các bạn, thần Gió, thần Mưa, thần Sấm, thần Chớp, cùng đến ra mắt. Vị thần mê gái liền nhờ Thiên Lôi giúp mình đánh cho tan tành quần áo cô gái đang nô đùa với bầy thú giữa rừng kia, song đừng làm hại đến người nàng. Thần Sét vâng lời, rồi chỉ trong nháy mắt, giữa lúc cô gái đang vuốt ve mấy con nai con bên giòng suối, thì mây đen kéo đến kín trời, gió nổi lên dữ dội, sấm dậy ầm ầm, chớp nhoáng chằng chịt, mưa tuôn xối xả. Thị Tơ bỏ chạy về động, bỗng một tiếng sét nổ vang trời, rung chuyển cả núi rừng nhắm bổ xuống người nàng. Thị Tơ không hề hấn gì, song lớp quần áo che đậy người nàng đã tan biến đâu mất. Vị thần đứng trên một mỏm đá cao chứng kiến cảnh tượng ấy, phá lên cười đắc thắng, rồi sôi nổi chạy về phía người đẹp. Nhưng thần lại phải thất vọng một lần nữa, vì chiếc vòng ngọc đeo ở tay đã giúp cho thị Tơ thành ra vô hình. Đêm xuống, thị Tơ khó nhọc lần mò về đến trong động. Nàng thẹn thùng với tất cả chung quanh, tưởng chừng như vật gì cũng có mắt đang tò mò nhìn mình. Trần truồng, nàng không dám gọi đến ông lão hay lũ thú rừng quen biết đến cứu giúp. Nàng lui vào cuối động, rét run lẩy bẩy. Tấm lưới thần đã nuốt vào bụng làm cho nàng khó chịu, nôn ra, thành một đống chỉ mềm dịu, bền chắc. Lạnh quá, nàng lấy quấn vào người làm một thứ mền đắp ấm áp. Thế rồi nàng dần dần tắt thở trong cái ổ chỉ êm dịu ấy. Trước khi linh hồn rời khỏi thể xác, nàng thành khẩn nghĩ đến những kẻ nghèo nàn, khốn khổ, thiếu quần áo che thân, phải chết lạnh lẽo như nàng, tự nguyện sẽ giúp cho họ may mặc, đem những sợi chỉ này dệt thành quần áo. Vì thế mà nàng chết đi hóa thành con tằm. Để thực hiện lời nguyện ước, hồn nàng mang theo đống chỉ tơ đến giăng ở ngọn cây dâu trong vườn Thượng uyển, nơi hoàng hậu cùng vua thường ngự tới mỗi chiều. Khi hoàng hậu ngang qua, hồn nàng mới nhả ra các sợi tơ vàng óng ánh tung bay cho gió mơn man. Hoàng hậu ngạc nhiên hứng lấy, thấy chỉ tơ đẹp, ánh vàng, mềm dịu, bứt thử mới hay là sợi tơ trông mong manh mà dẻo chắc lạ thường. Dâng lên vua xem, hoàng hậu ước mong được mặc một chiếc áo dệt bằng những sợi tơ vàng đẹp ấy. Nỗi mong ước của hoàng hậu được nhà vua sai thực hiện. Tất cả những sợi tơ vàng trong vườn ngự uyển đều được thu góp lại, bao nhiêu thợ dệt tài giỏi trong nước được triệu vào cung, rồi chẳng mấy chốc, một tấm lụa vàng cực kỳ mềm dịu, bền chắc, rạng rỡ dâng lên trước mắt vua. Hoàng hậu vui mừng sai cắt ngay cho mình một chiếc áo dài, để hôm sau ra triều ngự cạnh vua. Cả triều sửng sốt trước vẻ đẹp của chiếc áo hàng mới làm tăng thêm bội phần nhan sắc của người mặc. Vua mới cho triều thần hay là chính hoàng hậu đã khám phá ra thứ chỉ tơ quý lạ đó, và cho phép các quan cùng nhà giàu có trong nước được bắt chước hoàng hậu may mặc thứ hàng mới kia. Từ đó nghề trồng dâu, nuôi tằm bắt đầu nẩy nở, đáp lại nguyện vọng thiết tha của cô gái quê mùa thị Tơ. Nguồn Tổng hợp. Ngày xưa, trong một làng ven sông Đà có một người rất giàu có, nhưng tính tình tham lam, gian ác. Một hôm, vào tối tháng chạp, có một cụ già rách rưới, không biết từ đâu đến, đi vào làng. Bà cụ tìm đến nhà tên giàu xin trú thân. Thấy cụ yếu đuối và rách rưới, hắn đuổi không cho ngủ nhờ. Bà cụ vẫn cứ xin mãi, hắn cũng một mực đuổi ra. Bà cụ đành phải đi. Vừa đi khỏi cổng, bà gặp một người nông dân từ xa đi tới. Thấy người già yếu, đi trong đêm tối rét mướt, anh hỏi - Cụ ở đâu mà đêm hôm vẫn còn lặn lội ở ngoài đường thế này? Bà cụ đáp - Tôi từ xa tới, đến đây thì nhỡ độ đường, vừa vào nhà kia cụ chỉ về phía nhà giàu xin ngủ nhờ một đêm nhưng nó không cho. Anh liền nói - Mời cụ vào nhà tôi nghỉ tạm vậy. Bà cụ theo anh nông dân về nhà. Nhà anh là một cái túp lều xiêu vẹo, rách nát. Vừa vào đến nhà anh đã kể đầu đuôi câu chuyện cho vợ rõ. Nhà chỉ còn một bát gạo, hai vợ chồng đem nấu cho bà cụ ăn. Cơm nước xong, hai vợ chồng dọn giường chiếu cho bà cụ ngủ. Mùa đông, gió rét, bà cụ run lên cầm cập. Nhà chỉ có một chiếc chăn đơn cũ kĩ, hai vợ chồng cũng nhường cho bà cụ đắp. Bà cụ lên giường nằm, hai vợ chồng ngồi bên bếp lửa sưởi, chờ cho bà cụ ngủ say mới đi nằm. Nhưng họ vừa đặt mình xuống chưa chợp mắt thì bà cụ rên hừ hừ, kêu đau bụng. Hai vợ chồng dậy lấy cho bà cụ một chiếc chậu sành để đi đại tiện. Một đêm, bà cụ đi đến bảy, tám lần. Hai vợ chồng phải thay phiên nhau đỡ bà cụ. Gần sáng, đôi vợ chồng mệt quá, thiếp đi lúc nào không biết. Khi hai người tỉnh dậy thì tròi đã sáng, nhìn sang giường bên thì không thấy bà cụ đâu cả. Người vợ bưng chậu đi đổ, thấy nặng khác thường Chị nhìn xuống thì thấy trong chậu đầy vàng óng ánh. Từ đó, hai vợ chồng trở nên giàu có. Tuy vậy, họ không bao giờ quên cảnh nghèo khi trước nên vẫn hết sức giúp đỡ những người trong cảnh khốn cùng. Tiếng lành đồn xa, khắp dân trong vùng ai ai cũng biết. Tên phú ông lân la đến chơi nhà hai vợ chồng, dò hỏi. Từ đấy, ngày nào hắn cũng mong được gặp lại bà cụ. Bỗng một hôm, trời gần tối, không biết từ đâu, bà cụ lại đến nhà hắn xin ngủ nhờ. Hắn khấp khởi mừng thầm, vui sướng như mở cờ trong bụng. Nhà hắn thì tòa ngang dãy dọc, nhưng hắn cho bà cụ nằm dưới bếp. Thóc của hắn có hằng bao nhiêu vựa, nhưng hắn chỉ cho bà cụ một bát cơm nguội với vài quả cà thiu. Xưa nay, hắn chưa cho ai một tí gì, nên hắn tưởng thế đã là hậu đối với người nghèo khó. Đêm ấy, hắn ngồi đợi bà cụ đi ra vàng. Hắn thức khuya mà vẫn thấy cụ ngủ im thin thít, không kêu đau bụng gì cả. Mệt quá, hắn bỏ đi nằm. Vừa đặt mình xuống thì bà cụ kêu đau bụng, rồi một lát sau đòi đi ra ngoài. Hắn quên mất ý định từ trước, trong lúc nửa tỉnh nửa mê, hắn mắng bà cụ - Của nợ, chỉ thấy quấy rầy người ta. Muốn đi thì ra ngoài kia mà đi, ai hầu được! Nhưng sực nhớ ra bà cụ có cái bụng chứa đầy vàng hắn vội nói - à à, thôi được, cứ nằm đấy, tôi mang chậu vào cho. Thế rồi hắn vội đi lấy cái thùng to tướng và giục bà cụ ngồi vào đó. Bà cụ đau suốt đêm và đi như tháo cống. Tên phú ông thấy bà cụ đi nhiều, rất lấy làm mừng. Suốt đêm, hắn không sao chợp mắt được, chỉ mong cho chóng sáng. Nhưng đến khi tờ mờ sáng thì hắn lại ngủ thiếp đi. Sáng rõ, tên phú ông tỉnh dậy, không thấy bà cụ đâu cả. Hắn vội đến thùng vàng thì mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Hắn tím mặt, vội đi tìm bà cụ, hung hăng định cho một trận, nhưng không thấy bóng dáng bà cụ đâu cả. Ở vùng núi Tuyên Hưng có loài đười ươi có thể nói được tiếng người, người ta bắt chúng về nuôi làm cảnh tập nói một vài tiếng cho vui. Lúc ấy ở kinh thành Thăng Long có một lão nhà buôn giàu có nhưng rất tham lam, lão ta rất khinh miệt người nghèo khó. Một hôm có mấy người khiêng võng đến trước tiệm nhà lão, một người gia nhân vào nhà và nói – Bà lớn nhà tôi bị cảm không ra gió được, ông chịu khó mang hang ra võng cho Bà chọn. Nghe thấy có Bà lớn đến mua hàng , lão chủ tiệm hí hửng mang hàng ra cho Bà lớn chọn. Lão đưa món nào Bà lớn ở trong võng cũng nói “Được, được”. Gia nhân lại nói – Bà lớn bảo mang hết hàng bà chọn về dinh để lấy tiền. Lão chủ tiệm mừng rỡ vô cùng. Lão hí hửng đi theo Bà lớn vừa đi lão vừa lẩm bẩm – Đúng là bán cho nhà quan nói gì cũng mua. Đến một ngôi nhà lớn gia nhân lại nói – Ông ngồi chờ ở đây, tôi sẽ mang tiền ra. Lão chủ tiệm hí hửng ngồi chờ, đám gia nhân mang hàng đi vào cổng lớn nên lão không hề nghi ngờ gì. Lão ngồi đợi mãi đến chiều mà không thấy ai ra thì lão vào trong ngôi nhà thì thấy giữa sân là cái võng của Bà lớn. Lão giật tấm vải che ra thì hốt hoảng nhận ra Bà lớn là một con đười ươi. Đười ươi nói “Được, được”. Lão hốt hoảng chạy sâu vào bên trong thì thấy đó chỉ là một căn nhà bỏ hoang, đám gia nhân đã mang hàng theo cửa sau chạy đi mất. Biết mình đã bị lừa, lão chạy ra chửi rủa con đười ươi, nhưng nó vẫn chỉ nói “Được, được”. Lão chủ tiệm đành nuốt giận đi về nhà. Đó là bài học thích đáng cho tính tham lam của lão thấy lợi là hoa mắt không suy tính thiệt hơn. Nguồn Truyện cổ tích Tổng hợp.

truyen co tich tham thi tham